Tranh Thiên Hạ

Q.2 - Chương 39 - Dễ Dàng Chiếm Bạch Đô

/55


“Vương, sắc trời đã tối muộn, giặc cùng đường chớ truy. Lần này ta đã đuổi theo gần hai trăm dặm, lại thêm việc công thành liên tiếp, binh sĩ quả thật đã quá mệt rồi. Nếu quân Nam quay ngược tập kích, ta chỉ có tám ngàn kị mã so với chúng có tới hai vạn binh, dù là thiên thời hay địa lợi đều vô cùng bất lợi cho quân ta, chi bằng hãy sớm trở về thành Thạnh, tập trung đại quân rồi đuổi tiếp cũng không muộn!”

Mặt trời đang dần thu lại những vạt nắng cuối cùng, mặt đất nhuốm màu hoàng hôn ảm đảm. Giữa hàng ngàn thiết kỵ đạp vó xẹt qua tựa như một dải mây tím trên vùng đất hoang dã bạt ngàn, một vị tướng lĩnh trẻ tuổi đang cố gắng bắt kịp người dẫn đầu quân.

Nhưng người này có vẻ như không nghe thấy, vẫn cưỡi ngựa phóng như bay. Đám lính phía sau cũng vung roi đuổi tới.

“Vương…” Vị tướng lĩnh trẻ tuổi chỉ kịp gọi một tiếng đã bị hàng ngàn kỵ binh phía sau vượt lên che lấp, âm thanh dường như bị nhấn chìm trong tiếng vó ngựa vang dội như sấm.

“Dừng!” Bỗng người dẫn đầu hạ lệnh.

Ngay lập tức, tám ngàn kỵ binh đồng loại dừng lại, tiếng ngựa hý vang vọng bốn bề.

Dẫn đầu tám ngàn bị binh là một chàng trai cao lớn tuấn tú bận áo giáp vàng, cưỡi một con ngựa lông đỏ rực như lửa cháy. Dáng y ngồi ngay ngắn tựa như đang ngồi trên điện Kim Loan nắm giữ vạn dặm giang sơn, dẫu không một lời không một động tác cũng có khí thế ngạo nghễ nhìn thiên hạ. Đương thời, người có loại khí thế mạnh mẽ này trong thiên hạ chỉ có một, là vương của nước Hoàng – Hoàng Triều!

“Vương!” – Vị tướng lĩnh trẻ tuổi phi tới bên cạnh Hoàng Triều, “Chúng ta có nên về thành?”

Hoàng Triều hơi nghiêng tai, tựa như đang lắng nghe tin tức từ trong làn gió thoảng. Lát sau, y khẽ mỉm cười, nụ cười đầy vẻ cao ngạo và đắc thắng.

“Đinh tướng quân của nước Nam chỉ đến thế thôi à? Thủ thành không xong thì dẫn tàn binh bỏ chạy, ra vẻ yếu ớt dụ bổn vương khinh địch truy kích, đợi đến lúc quân ta mệt mỏi thì quay ngựa đánh úp. Tưởng có ưu thế quân số hơn xa thì có thể bắt sống hoặc giết được bản vương sao? Chỉ đến vậy thôi à? Ái chà, đối thủ như vậy thật chẳng thú vị chút nào!” Những lời của Hoàng Triều thay vì bảo rằng đang nói cho vị đô úy Lê Thụy nghe, thì nói y đang tự bảo với chính mình còn hơn.

Hai canh giờ trước, Tranh Thiên kỵ của nước Hoàng công phá thành Thạnh nước Nam. Vị tướng thủ thành Đinh Tây ngay lúc thành bị phá đã dẫn theo hai vạn tàn binh tháo chạy về vương đô nước Nam. Hoàng Triều nghe tin liền không đợi đại binh tập hợp đủ vào thành, lập tức dẫn tám ngàn kỵ mã gấp rút đuổi theo.

“Vương, quân Nam thật sự định quay đầu tập kích chúng ta sao? Nhưng lúc này… quân ta chỉ vỏn vẹn tám ngàn, bọn chúng… Vương, hay chúng ta trở về thành Trắc trước?” Lê Thụy chau mày, không giấu được vẻ lo lắng.

Hoàng Triều liếc nhìn vị đô úy gần mười chín tuổi đứng cạnh mình, rồi lại quay ra nhìn về phía trước: “Lê đô úy, nhiều lúc số lượng đông không đi đôi với thắng lợi.”

“Vương…” Lê đô úy vắt cạn chất xám, chỉ muốn khuyên ngăn thống lĩnh của mình đừng dấn thân vào chỗ nguy hiểm, nhưng khổ nổi đầu óc anh như bị thiếu tế bào văn chương tinh tế, nghĩ mãi cũng chỉ nói được một câu: “Vương, xin người hãy quay trở về thành Thạnh, đợi tập hợp đủ đại quân rồi truy đuổi quân Nam cũng không muộn.”

Hoàng Triều nghe xong cũng chỉ cười thản nhiên. Đây không phải nụ cười tán đồng ngợi khen, cũng không phải nụ cười chế giễu trào phúng, mà là nụ cười của một người chơi cờ giỏi đang nắm chắc phần thắng trong tay với một người cờ nghệ còn kém cỏi và đang bị mê hoặc trong trận thế cờ.

Hoàng hôn tắt nắng, nhìn bốn phía màn đêm dần bao phủ toàn bộ mặt đất. Trong khoảng không mông lung thực thực ảo ảo, bọn họ đang đứng trên một cao nguyên bằng phẳng, phóng tầm mắt ra xa chỉ có một dãy núi cao chừng mười trượng.

“Bản vương trước giờ chỉ dẫn binh tấn công địch, chưa từng có chuyện sợ địch mà lui binh!” Hoàng Triều chỉ tay dứt khoát vào dãy núi cao trụ vững trước mắt “Chúng ta đi tới đó!” Nói xong y lập tức cưỡi ngựa lao đi với tám nghìn thiết kỵ bám sát.

Bụi cát trên đỉnh núi vừa lắng, tiếng vó ngựa từ xa vọng đến.

“Trường thương!” Thanh âm của Hoàng Triều rất khẽ, nhưng vẫn vọng đến tai từng binh sĩ. Lập tức, trường thương trên tay tám ngàn kỵ sĩ đồng loạt chĩa thẳng về trước.

Đằng xa, tiếng vó ngựa và tiếng hí dội đến như mưa lũ. Đến gần chân núi, quân Nam bỗng dưng dừng bước.

“Tướng quân?” Một người vận đồ như phó tướng đang nghi ngờ nhìn về phía vị chỉ huy vừa ra lệnh dừng lại – thủ lĩnh của thành Thạnh, Đinh Tây, Đinh tướng quân. Vất vả lắm đại quân lúc này mới có dũng khí quay đầu tập kích, đáng ra phải tranh thủ cơ hội thừa cơ giết địch trở tay không kịp. Chớ sao còn chưa thấy bóng dáng Tranh Thiên kỵ đã hạ lệnh dừng quân?

Đinh tướng quân nước Nam là lão tướng ba mươi năm tòng quân, vốn nổi tiếng với cách hành binh cẩn trọng. Ông ta từng ba lần dẫn quân xâm nhập vương vực, trận nào cũng chiếm được một thành về tay, chỉ duy lần này đại bại trước sự tấn công mạnh mẽ của Hoàng Triều, trơ mắt nhìn Tranh Thiên kị phá tan cửa thành Thạnh. Danh vọng một đời biến thành tro bụi dưới khí phách của Hoàng Triều, việc duy nhất có thể làm là dẫn theo đám tàn binh bại tướng tháo chạy hòng giữ mạng. Có điều chẳng cam lòng, trước khi đi cũng muốn dạy cho Hoàng Triều một bài học. Nếu không lúc về tới vương đô, lấy đâu mặt mũi gặp đại vương?!

“Tướng quân…” vị phó tướng bên cạnh khẽ gọi ông ta.

Đinh Tây vung tay chặn lời, nhảy xuống ngựa, thân thủ vẫn vô cùng mạnh mẽ. Ông ngồi xuống quan sát mặt đất, chỉ là đêm không sao, thật khó phân biệt được dấu vết.

“Mau châm lửa!” Vị phó tướng lập tức ra lệnh cho binh sĩ, sau đó vô số ngọn đuốc được đốt lên, cánh đồng hoang vu rực màu lửa đỏ.

Nương theo ánh lửa, Đinh Tây cẩn thận quan sát dấu vết. Sau khi xác định đó là dấu vó ngựa của thiết kỵ, không hiểu sao trong lòng dấy lên sự khủng khoảng chưa từng có, khiến ông đột nhiên đứng bật dậy.

“Tướng quân, sao vậy?” Vị phó tướng nhìn thấy biểu hiện của Đinh Tây không khỏi thắc mắc.

“Bọn chúng đến đây rồi, nhưng ta lại không thấy, chẳng lẽ…” Đinh Tây thì thào nói.

Nhưng lời của ông chưa dứt hẳn, một giọng nói trong trẻo vang lên giữa cánh đồng hoang vu u tối: “Đinh tướng quân, ngài quả thật không làm bản vương thất vọng!”

Giọng nói ấy khiến tất cả quân Nam dời mắt nhìn lên phía trên đỉnh núi, giữa ánh lửa lập lòe xẹt qua một tia sáng bạc. Khi mọi người vẫn còn chưa hết kinh hãi, giọng nói ấy lại vang lên với khí thế ngạo nghễ quyết đoán không gì sánh kịp: “Các anh em, xông lên! Giúp bản vương đạp bằng mọi trở ngại tới đỉnh Thương Mang!”

Lời vừa dứt, hàng trăm ngàn tiếng “ô hô ô ô …” đồng loạt vang lên như mãnh hổ, tiếng vó ngựa như sấm nổ, tám ngàn kỵ binh như thuỷ triều tím quét tới!

“Mau lên ngựa!” Đinh Tây hốt hoảng ra lệnh. Ông đã sớm trải nghiệm được sự dũng mãnh của Tranh Thiên kỵ, giờ đây họ còn mượn thế núi cao lao xuống, sự tập kích đôi này dù là tường đồng vách sắt cũng không sao cản nổi.

Dòng thuỷ triều tím cuốn tới rất nhanh, chỉ trong chớp mắt đã ở ngay trước mắt. Những binh sĩ nước Nam còn chưa kịp leo lên lưng ngựa liền bị vùi mình dưới sóng triều, còn những binh sĩ đang ở trên ngựa lại như những chướng ngại vật cản đường cơn sóng bị ngọn thương sắc bén đi trước sóng triều tím đâm thủng. Gót sắt trập trùng san bằng mọi chướng ngại vật. Trong khoảnh khắc, thuỷ triều tím như ẩn như hiện từng dòng nước đỏ.

“Mau rút!” Đinh Tây quả quyết ra lệnh. Không phải ông ta yếu đuối không dám nghênh địch, chỉ là ông hiểu rõ với khí thế bức người bây giờ của Tranh Thiên kỵ, việc ngoan cố đối đầu chỉ càng làm nhiều quân Nam thương vong vô ích.

Lệnh vừa ra, binh lính nước Nam vốn đang kinh sợ tới hồn phi phách tán dưới sự xuất hiện đột ngột và sát khí của quân địch lúc này mới bỏ chạy tán loạn, không quản gươm kiếm có rơi, không xem mũ giáp có lệch, không quan tâm đồng đội ngã ngựa ra sao… tất cả chỉ biết trốn chạy, trốn tới nơi thuỷ triều tím không kịp tới.

“Trốn? Chưa từng có con mồi nào bản vương nhìn trúng lại lọt lưới cả!” Hoàng Triều giơ cao bảo kiếm, “Các anh em, chiến thằng trận này, bản vương thưởng cho mỗi người ba bàn rượu ngon!”

“Ô!” tiếng đáp trả rầm trời, chấn động cả vùng hoang vu.

Trong tiếng thét oai hùng cao vút, người kỵ sĩ cao lớn nhất vĩ đại nhất ấy, giữa đêm đen mịt mùng mang theo mũi kiếm chói lóa như ánh dương cùng khí thế thay trời đổi đất từ gò đất cao cao kia lao vùn vụt xuống, một đường bay qua, bảo kiếm Vô Tuyết lạnh lẽo sắc bén trong tay quét ngang, một dòng sông máu lẳng lẽ tuôn trào.

“Tướng quân, mau chạy đi!” Vị phó tướng kêu gọi vị chủ soái vẫn đang sừng sững tại chỗ dù đã hạ lệnh lui binh.

“Diêu phó tướng, bản tướng đã không còn đường lui rồi.” Đinh Tây quay đầu nhìn vị phó tướng đang thúc giục mình, vẻ mặt của ông lúc này vô cùng bình tĩnh.

“Tướng quân…” Diêu phó tướng nhìn nét mặt chủ soái, một cảm giác chẳng lành trào dâng trong lòng, cảm giác này còn đáng sợ hơn khí thế mạnh mẽ của quân địch trước mắt.

Đinh Tây lẳng lặng rút bội đao giắt hông, nhẹ nhàng vỗ về bảo đao đã theo mình chém giết suốt mười năm, vẻ mặt quyến luyến mà ấm áp.

“Bản tướng không vợ không con, không nhà không cửa, chỉ có một đao này…” Ông hơi vận sức bắt lấy chuôi đao, quay đầu nhìn về phía vị phó tướng theo mình đã ba năm “Diêu phó tướng, một lát nữa bản tướng sẽ đích thân đối đầu Hoàng vương, lúc ấy lực chú ý của y chắc chắn bị ta thu hút, khi đó cậu hãy dẫn dắt đội Lôi nỏ… Trăm tên cùng bắn! Hãy nhớ kỹ, tuyệt đối không được do dự, dẫu trước cung nỏ có là quân Nam, hay thậm chí là… bản tướng!”

“Tướng quân!” Diêu phó tướng nghe vậy không khỏi kinh ngạc kêu lên.

Đinh Tây phất tay, mắt dõi về tiền phương. Trong trăm ngàn kỵ binh chỉ có một người luôn ngự trên mọi người, bóng dáng ngạo nghễ nhường ấy, khí thế tựa như nắm lấy trời cao trong tay. Trong ánh lửa lập lòe, hào quang của người đó rực rỡ và mãnh liệt, tựa như ánh dương từ chín tầng mây dội về.

“Có thể chết cùng một chỗ với người như vậy, âu cũng là một điều vinh quang!”

Đôi mắt Đinh Tây vốn đã nhuốm màu tuổi tác nay bỗng ánh lên tia sáng nóng bỏng mà hăng hái của tuổi trẻ, “Sau khi tên đồng loạt bắn ra, dẫu trước mắt là thắng hay bại, là sống hay chết, cậu cũng phải tức tốc dẫn đội rời đi, có thể dẫn bao nhiêu người thì dẫn hết bấy nhiêu! Các cậu chớ về vương đô, vương tuyệt đối sẽ không tha cho các cậu! Hãy đến thành Nha tìm Thác Bạc tướng quân, may ra còn có thể giữ lấy một mạng!” Vừa dứt lời, ông ta giơ cao bảo đao, vỗ mạnh chiến mã, tức thì chiến mã hí vang, tung bốn vó, băng băng tiến về phía trước.

“Đội Lôi nỏ chuẩn bị!”, nhìn theo bóng lưng vị lão tướng kiên quyết xông pha, Diêu phó tướng khẽ nhắm mắt, quả quyết hạ lệnh.



Ngày hai mươi lăm tháng tám, Phong Vân kỵ công phá thành Du nước Bạch.

Đồng thời, Mặc Vũ kỵ vốn đóng quân ngoài thành thủ phủ nước Bạch cuối cùng cũng hành động.

“Vương, tình báo thăm dò được cho biết, trong Bạch đô hiện có năm vạn quân Bạch, dựa vào binh lực quân ta, muốn công phá thành, quả thực chẳng cần tốn sức.” Nhậm Xuyên Vũ dùng đầu ngón tay khẽ khoanh một vòng trên bản đồ, tựa như Bạch đô đã nằm gọn trong túi.

“Sở dĩ Bạch đô hiện giờ chỉ vỏn vẹn có năm vạn binh, là vì hai vị công tử nước Bạch đều lĩnh quân tập kết tại thành Uyển, thành Vu, thành Nguyên, thành Quyên nơi đất vua. Nếu họ dẫn quân về ứng cứu, chúng ta sẽ không thoải mái thế đâu.” Hạ Khí Thù dội ngay một gáo nước lạnh.

“Haha… hai vị công tử tuyệt đối sẽ không làm, mà cũng chẳng dám cho quân quay về ứng cứu vào lúc này đâu.” Nhậm Xuyên Vũ cười phớt lờ, một nụ cười vô cùng giảo hoạt.

Đoan Mộc Văn Thanh liếc Nhậm Xuyên Vũ, đôi mày cau lại, không thích vẻ tươi cười này của Nhậm Xuyên Vũ, rồi lại nhìn về phía Lan Tức đang ngồi trên vương toạ.

“Vương, lần này chúng ta công phá hay vây thành đây?”

Lời vừa dứt, bốn người còn lại đồng loạt nhìn về phía vị vương vẫn ngồi đó mà không cất tiếng.

“Không cần đánh phá.” Lan Tức giơ một ngón tay khua nhẹ, chỉ một động tác giản đơn nho nhỏ thôi, thế mà tao nhã vô cùng, tựa như chàng không chỉ đu đưa một ngón tay, mà như lấy nhành lan khẽ phất qua chuỗi châu trên trán mỹ nhân.

Dưới cái nhìn chăm chú của thuộc cấp, ngón trỏ của Lan Tức khẽ khép lại, bốn ngón tay trắng ngần kia dường như lan tuyết đậu xuống gò má tựa mĩ ngọc tạc thành, giọng nói rù rì thoảng như tiếng thủ thỉ của đóa u lan chớm nở, dù cho có nói lời gì, thì đều là lời chi lan [*], vừa lan tỏa khắp phòng và lại êm tai vô cùng.

[*] Chi lan: hai loại cỏ chi và lan ẩn dụ cho phẩm chất của nhân sĩ thời xưa, cao thượng, tài đức.

“Chúng ta vây thành, hơn nữa chỉ vây ba mặt.”

Nghe xong, ánh mắt Nhậm Xuyên Vũ lập tức sáng lên, nhìn về phía Lan Tức, tức thì ngầm hiểu.

“Chỉ vây ba mặt? Tại sao lại chừa ra một mặt? Không sợ Bạch vương trốn mất sao?” Nhậm Xuyên Vân không khỏi nghi hoặc.

“Ái chà! Thợ săn bẫy thú cũng còn đối xử khoan hồng, chúng ta lại là bậc nhân nghĩa, há có thể đuổi cùng giết tận.” Lan Tức thở dài một tiếng tỏ vẻ than thở đầy lương thiện, vẻ ưu tư trên mặt chàng khiến bất cứ ai nhìn vào cũng bị cảm động bởi sự nhân từ, “Vì vậy nếu trận này ông ta may mắn thoát được, bản vương cũng tuyệt đối không truy kích.” Nói xong chàng bèn liếc về phía chúng tướng, ý tứ rất rõ ràng, bản vương đã chẳng đuổi theo, thì các người cũng phải ngoan ngoãn theo lệnh mới phải.

Đoan Mộc Văn Thanh và Nhậm Xuyên Vân hai mặt nhìn nhau, họ là những người đã theo vương hơn chục năm, làm sao có thể tin vào cái cớ này!

Hạ Khí Thù lại cúi đầu mỉm cười, không nói thêm gì nữa. Kiều Cẩn thu lại trường kiếm đang ngắm nghía trong tay về bao, nói: “Vậy nếu ông ta không trốn? Nếu Bạch vương tử thủ thành đô, thề sống mái một phen thì sao?”

“Ông ta nhất định sẽ trốn.” Người trả lời là Nhậm Xuyên Vũ, trên khuôn mặt trắng trẻo sạch sẽ kia là cái vẻ đắc ý giảo hoạt như ăn vụng được nho, “Ông ta nhất định phải trốn”.

Kiều Cẩn chau mày, liếc nhìn Nhậm Xuyên Vũ, sau một lát dường như cũng đồng tình với lời nói tự tin vừa rồi, cũng chẳng nói thêm gì nữa.

Đoan Mộc Văn Thanh lúc này nhăn đôi mày rậm nhìn về phía Nhậm Xuyên Vũ. Mỗi khi xuất hiện nụ cười này trên mặt cậu ta, thì tượng trưng cho việc lại có một mưu kế thành công. Trong bốn tướng quân ở đây thì tính cách Đoan Mộc Văn Thanh là ngay thẳng nhất, đối với mưu ma quỷ chước của Nhậm Xuyên Vũ, hắn đồng ý đứng cùng một phe nên cũng không trách cứ hay phản đối, có điều muốn hắn thích những mưu kế này thì bất khả thi.

Và đối với hàm ý biểu lộ trong ánh mắt của Đoan Mộc Văn Thanh và cái nhìn của hắn, Nhậm Xuyên Vũ cũng chỉ nhún vai tùy ý cười.

“Lần này tốt nhất đừng nên có quá nhiều thương vong, dù là phía ta hay là quân Bạch.” Lan Tức bỗng cất tiếng, hai con ngươi đen láy xoay về phía Nhậm Xuyên Vũ, đôi đồng tử tựa biển đen sâu thẳm dường như cất giấu điều gì đó.

“Vương xin yên tâm, chiếm đóng Bạch đô lần này cũng không cần chiến đấu oanh liệt gì.” Nhậm Xuyên Vũ đứng dậy cúi đầu về phía vương cam đoan, “Thần nhất định dốc hết sức hoàn thành tâm nguyện của vương!”

“Ừ.” Lăng Tức khẽ gật đầu, sau đó tiếp lời: “Đại quân nếu muốn thắng, thì lương thực, vũ khí thiết yếu tuyệt đối không thể thiếu, bất kể là Mặc Vũ kỵ hay Phong Vân kỵ.” Lần này chàng lại hướng ánh nhìn về phía Hạ Khí Thù.

“Thần đã rõ, thần nhất định sẽ dàn xếp ổn thỏa.” Hạ Khí thù đứng dậy nói.

“Vậy thì tốt.” Lăng Tức phẩy tay, “Các anh cũng lui xuống chuẩn bị đi.”

“Vâng, chúng thần xin lui.” Cả năm người đồng loạt cúi mình rút lui.



Bên trong chiếc lều nhỏ ở phía sau cùng doanh trại quân Phong, là nơi ở của nữ ca Phượng Thê Ngô của Tức vương.

“Phượng tỷ, tỷ có thể hát cho muội nghe không?” Tiếng cầu xin lảnh lót giòn tan cất lên pha chút nũng nịu .

Trong lều, Phượng Thê Ngô vận một bộ váy xanh đang ngồi trên tháp gấm cầm khăn lụa chà lau chiếc đàn tì bà, còn Lang Hoa vận váy đỏ lửa đang tựa cạnh tháp, ngửa đầu nhìn Phượng Thê Ngô.

Khi hai đại quân Hắc Phong Bạch Phong bắt đầu phân quân khởi hành, về lý, Lang Hoa thân là vợ chưa cưới của tướng quân Tu Cửu Dung nước Bạch Phong, lẽ ra nàng phải đi cùng quân Bạch Phong mới phải. Nhưng Phong vương lại đưa cô đến lều trại của Phượng Thê Ngô, chỉ nói một câu: ở cùng Phượng cô nương có vẻ tốt.

Tốt sao? Lúc này đây vẫn chưa thể khẳng định. Chỉ biết rằng khi tâm trạng Lang Hoa trở nên rối bời, đứng ngồi không yên, lo sợ khôn nguôi thì Phượng Thê Ngô ở bên cạnh sẽ đàn một khúc tỳ bà hoặc xướng một khúc ca. Mỗi lúc như thế, Lang Hoa sẽ tựa vào bên cạnh Phượng Thê Ngô, giống như chú mèo con nằm ngủ trưa bên bờ hồ, vừa biếng nhác lại uể oải.

Phượng Thê Ngô lạnh lùng kiệm lời, Bạch Lang Hoa nhiệt tình hoạt bát, hai mỹ nhân ngỡ như chẳng hợp nhau cả về ngoại hình lẫn tính cách, thế mà khi ở gần nhau lại giống như bức sen hồng nước biếc, bừa bổ sung vừa phối hợp với nhau, đã thanh khiết lại còn tươi đẹp, vừa mỹ lệ vừa yêu kiều.

“Phượng tỷ, tỷ có thể hát được không?” Lang Hoa khẽ kéo tay ngọc đang chuyên chú lau đàn cầm.

“Ngày nào cũng phải hát cho muội nghe, muội đâu còn là con nít ngủ không ngon giấc.” Phượng Tê Ngô lạnh nhạt đáp lời.

“Nhưng… nhưng lòng người ta hỗn loạn mà.” Lang Hoa khổ não gõ đầu mình, “Muội cũng chẳng biết sao nữa, tim cứ luôn nảy liên hồi, muội… Muội rất sợ hãi! Phượng tỷ tỷ, phụ vương muội… Phụ vương muội, ông ấy…”

Đôi tay bận lau chùi chiếc đàn cuối cùng cũng ngừng lại, ánh mắt lạnh lùng dời về phía mỹ nữ ngồi trên kia tựa khối bạch ngọc lấp lánh trong ánh lửa đỏ rực, lòng lặng lẽ thở dài.

“Phượng tỷ tỷ, phụ vương muội… ông ấy liệu có chết không?” Ngập ngừng, sợ hãi, rốt cuộc cũng vẫn thốt ra. Khi chữ “chết” buột ra, một chuỗi lệ châu liền rơi xuống, bàn tay trắng nõn vội vàng nâng lên lau lệ, đôi mắt ngấn nước mà sáng ngời hoang mang nhìn vị mỹ nhân hàn ngọc tựa như dù mặt trời có rơi xuống trước mắt cũng chẳng mảy may tan ra, “Phượng tỷ tỷ, muội rất sợ phụ vương sẽ chết, nhưng… nhưng muội lại không thể làm được gì… muội…”

“Ôi.” Phượng Tê Ngô khẽ thở dài một tiếng, nâng bàn tay phủ trên gối lên xoa đầu, “không cần lo lắng, Tức vương chắc chắn sẽ không sát hại phụ vương muội.”

“Vâng.” Lang Hoa khẽ gật đầu, nhưng nỗi muộn phiền vẫn vương trên mặt, “Vừa nãy Nhậm quân sư bảo muội không cần lo lắng, anh ta nói Tức vương có ý muốn thiên hạ thái bình, quyết không phải người hiếu chiến. Vậy nên dù cuộc chiến thế nào, bất cứ binh sĩ nào của Phong quốc cũng sẽ không có chút bất kính với phụ vương muội, chứ đừng nói là giết ông… nhưng… Nhưng lòng muội vẫn không yên được, nên tỷ hãy hát cho muội nghe đi được không? Chỉ cần nghe tỷ hát, là sẽ quên đi sợ hãi.”

Phượng Thê Ngô nhìn nàng, rồi lại tiếp tục vùi đầu lau huyền cầm, “Lòng muội không yên là vì Tu tướng quân.”

“Cái… cái gì… không phải như thế!” Lang Hoa theo phản xạ ngẩng đầu hét to, loáng cái mặt đã như màu xiêm y đỏ lửa, diễm lệ như ánh bình minh nơi chân trời.

Đôi tay Phượng Thê Ngô hơi dừng một chút, quay sang ngắm nàng, thản nhiên mở lời : “Với bản lĩnh của Tu tướng quân, muội không cần lo lắng.”

“Anh ta… muội mới không phải đang lo cho hắn! Muội chỉ đang lo cho phụ vương! Lo cho an nguy của nước Bạch!” Lang Hoa cao giọng giải thích. Nhưng khuôn mặt đỏ rực, cùng đôi mắt ngập nước đã tiết lộ tâm ý thực sự của nàng.

Nhìn thấy vẻ mặt e thẹn, như vui như giận này của Lang Hoa, trên khuôn mặt đẹp lạnh lùng của Phượng Thê Ngô cũng không khỏi nở ra một nụ cười nhẹ, lại thêm một phần dịu dàng.

“Tu tướng quân sẽ là một đấng phu quân tốt, muội rất may mắn.” Ngữ điệu lãnh đạm pha lẫn một chút hân hoan nho nhỏ cùng với một phần sầu muộn âm ỉ.

“Anh ta… anh ta…” Lang Hoa muốn buông vài câu tuyệt tình để chứng mình rằng mình không hề để ý tới tên Tu Cửu Dung đó, nhưng khi trong đầu hiện lên khuôn mặt kia, lòng nàng lại đau đớn một hồi, khiến nàng không kìm được mà nâng tay xoa ngực, vừa như vỗ về con tim đau đớn, vừa như xoa lên khuôn mặt bị ngăn trở bởi thời không xa xôi, cũng xoa lên vết sẹo khiến nàng nhức nhối kia.

Nhìn thấy những biểu cảm lướt qua trên mặt Lang Hoa, Phượng Thê Ngô khẽ lắc đầu, buông rơi khăn tay, ngón tay khẽ gảy, huyền cầm vang lên một “đinh” nho nhỏ.

“Muội muốn nghe bài nào?”

“A?” Lang Hoa hơi hơi ngỡ ngàng, rồi đột nhiên bừng tỉnh, “thì xướng… thì xướng… à đúng rồi, đúng rồi, hãy xướng cái bài về trộm chén băng ngàn năm của Long vương đi!”

“Bài đấy là…” Phượng Thê Ngô đặt hai tay lên đàn, là “Túy Tửu Ca” của Phong vương.

“Là Phong vương viết bài đấy ư?” Đôi mắt sáng ngời ánh lên những tia ái mộ, “Vậy… vậy tỷ mau xướng đi, nghe hay lắm đây! Tỷ, chúng ta có cần thêm rượu không? Phẩm Lâm, mau mang rượu đến đây!”

“Xì!” Nhìn thấy cô bé trước mắt trong chốc lát lại trở nhảy nhót không dứt, Phượng Thê Ngô không khỏi mỉm cười, nàng không trả lời, tay mềm khẽ lướt, lời ca cất lên:

“Nghe tin chàng mang rượu Tây Vực tới, ta mở cổng tre quét cỏ lối đi

Trước trộm Long vuơng chén dạ quang, sau lên Thiên sơn thảy băng ngàn tuổi

Người vẫn tựa sen trong nước, suối tóc đen, chằng mày màu khói

…”

Tiếng tỳ bà tình tang cùng tiếng ca thánh thót quẩn quanh khắp lều, khi Phẩm Lâm bưng rượu ngon tiến vào, khúc ca cũng nương theo mành vén lên lặng lẽ bay ra.



Vương cung Bạch Đô.

Hai cánh cửa đóng chặt của cung Di Đạm bị đẩy ra nhẹ nhàng, dễ thấy bên trong Bạch vương đang đứng sừng sững như pho tượng.

“Đại vương.” Tổng quản nội vụ Cát Hồng khẽ khàng bước vào đại điện.

“Vẫn chưa có tin tức sao?” Bạch vương hỏi mà không quay đầu.

“Tạm thời vẫn chưa có tin hồi cung của hai vị công tử.” Cát Hồng cúi đầu đáp lại.

“Hừ!” Bạch vương lạnh lùng hừ một tiếng, “Chỉ sợ vĩnh viễn cũng không có tin!”

“Đại công tử, tứ công tử có thể đang gặp chuyện trì hoãn trên đường hồi cung, có thể ngày mai đại vương sẽ thấy họ lĩnh quân về tới đại đô rồi.” Cát Hồng vẫn cúi mình nói.

Bạch vương nghe xong càng thở dài hơn: “Cát Hồng, ngươi không cần phải an ủi bản vương, hai đứa nghiệt tử đó chắc chắn sẽ không đem quân trở về. Bản vương cũng hiểu, vương đô trong mắt mọi người, giờ chẳng khác nào điện Diêm La, ai lại tình nguyện bỏ mạng chui vào đây?”

“Đại vương…” Lúc này Cát Hồng ngẩng cao đầu, mới phát hiện đại vương trông tiều tụy khủng khiếp như thế, tóc mai như sương, hốc mắt lõm sâu, bộ vương bào vốn rất vừa người nay cũng rộng thùng thình.

“Ôi, cơ nghiệp của tổ tiên, vậy mà ta giữ không nổi…” Ánh mắt Bạch vương dao động trên bức chân dung vẽ các đời quân chủ Bạch quốc treo ngay giữa điện, lấy tay che mắt, đau khổ than thở: “Xuống mồ cũng thẹn gặp!”

Cát Hồng nhìn Bạch vương, lại không biết an ủi thế nào, nghĩ đến tình hình trong ngoài thành, cũng là lòng nóng như lửa.

“Vậy có thăm dò được tin tức của công chúa không?” Bạch vương đột nhiên hỏi tới.

“Vẫn chưa có ạ.” Cát Hồng đáp, chờ đến khi thấy ánh mắt thất vọng âu lo của Bạch vương, không khỏi tiếp lời: “Vương đừng quá bận lòng, Tức vương luôn lấy nhân nghĩa xưng danh, chắc chắn sẽ không giết công chúa của hoàng tộc đơn giản như thế. Vả lại, công chúa đáng yêu vậy, ai lại nỡ hạ hại nàng.”

“Chỉ mong… chỉ mong ông trời phù hộ cho Lang nhi của ta!” Bạch vương bất đắc dĩ than thở, cuối cùng ánh mặt chợt tàn nhẫn, nghiến răng phẫn nộ, “Hai thằng trời đánh vô dụng, thế mà chỉ lo thân bỏ chạy, mặc kệ em gái! Bản vương… bản vương… khụ khụ…” một cơn đau thấu tim, Bạch vương ho khan không ngừng.

“Đại vương, xin người hãy bảo trọng thân mình.” Cát Hồng cuống quýt xoa nhẹ ngực Bạch vương.

“Hừ, người già rồi thì trở nên vô dụng mà thôi.” Đợi khi hơi thở trở lại bình thường, Bạch vương lại mệt mỏi buông lời.

“Đại vương…” Cát Hồng mấp máy môi như muốn nói điều gì đó, xong lại nuốt lời về.

Bạch vương liếc nhìn Cát Hồng rồi nói: “Cát Hồng, ngươi muốn nói gì với ta thì cứ nói đi, chỉ sợ qua nốt đêm nay, e cũng không còn cơ hội.”

“Đại vương, hiện giờ trong thành đồn đãi bốn phương, lòng dân tán loạn, lòng quân dao động, vương đô… Quả là khó giữ!” Cát Hồng bỗng nói một hơi, ánh mắt bình tĩnh nhìn Bạch vương, nhưng lại không sợ sệt mà chờ những lời đại nghịch này sẽ dẫn tới họa sát thân.

Bạch vương nghe xong quả nhiên nổi cơn thịnh nộ, hàng râu dưới cằm khẽ rung, nhưng cuối cùng ông vẫn kiểm soát được cảm xúc, hết sức ôn hòa mà nói: “Có phải ngươi đã nghe được điều gì không?”

“Kể từ khi đại quân Bạch Phong Hắc Phong khởi binh, một đường công đoạt bảy thành, Bạch quốc ta hơn phân nửa đã rơi vào túi chúng. Tuy lấy chiến tranh để đoạt thành, nhưng lại giỏi lấy lòng dân, bách tính đều không vì nước mất mà thấy nhục, ngược lại còn an yên núp cánh chở che. Mà trong nước lại truyền tụng lòng nhân nghĩa của Tức vương, uy danh của Phong vương, trăm họ không sợ mà còn sinh lòng mong mỏi. Trưa nay ở Tây thành, có người đòi rời thành để đầu quân cho Tức vương, thủ thành cưỡng chế lệnh xử trảm, khiến dân phẫn nộ, tuy sau đó đã trấn áp được, nhưng lại làm chúng ta mất lòng dân trầm trọng. Mà liên tục mấy ngày bị vây thành, quân ta như dây đàn căng, thể xác tinh thần kiệt quệ, cứ mãi như vậy, không cần đợi quân Tức tấn công, chúng ta đã tự bại.”

Câu trả lời của Cát Hồng cứ như đọc thuộc lòng, du dương trầm bổng, thao thao bất tuyệt.

“Ai đã dạy ngươi nói vậy?” Ánh mắt Bạch vương lóe lên tia sắc lẹm, vẻ mặt lạnh lẽo nghiêm nghị.

“Nô tài đáng chết.” Cát Hồng bịch một tiếng quỳ rạp, từ trong tay áo lấy ra một quyển tấu chương hai tay dâng lên, “Vì đại vương đã ba ngày không lên triều, nên Thái Luật đại nhân đã nhờ nô tài chuyển lời cho đại vương.”

Ánh sáng trong mắt Bạch vương tắt ngúm, im lặng hồi lâu, trong điện lúc này là khoảng lặng đến tức thở, trên trán Cát Hồng đang quỳ rạp dưới đất đầm đìa mồ hồi, không biết là do nóng bức hay là vì căng thẳng.

“Trình lên đây.” Rất lâu sau đó, Bạch vương cất giọng khàn khàn.

“Vâng.” Cát Hồng cuống quýt quỳ lết đến trước mặt Bạch vương, dâng cao tờ tấu chương tới đỉnh đầu.

Bạch Vương nhận lấy tấu chương, trong điện lại quay về lặng im như tờ.

Lại một lúc lâu sau, lâu tới mức hai chân Cát Hồng đã tê cứng, mới nghe được giọng nói không mang theo một chút xúc cảm của Bạch vương: “Đứng lên đi.”

“Đa ta đại vương.” Cát Hồng cuống quýt dập đầu đứng dậy.

Ánh mắt Bạch vương lại dời lên tấm chân dung các đời tổ tiên Bạch quốc, rồi lại trở về bản tấu chương.

“Buộc thiên tử lệnh chư hầu…” Âm thanh thì thào như tự nhủ.

Cát Hồng nghe vậy không khỏi lẳng lặng ngẩng đầu nhìn Bạch vương, đã thấy ông ta nhìn chằm chằm nơi chính giữa trên vách đá đến mức thất thần, nơi đó treo chân dung quốc chủ đời thứ nhất của nước Bạch – Bạch Ý Mã .

Đêm ngày hai mươi sáu tháng tám. Bạch vương dẫn năm vạn đại quân, mang theo tôn thất vương thân và đại thần thân cận, nhân đêm tối lặng lẽ trốn đến thành Trinh.

Sáng ngày hai mươi bảy tháng tám, dân chúng Bạch đô mở cổng đón chào vị Tức vương tuấn nhã vô song, nhân đức vẹn toàn.

Cứ như vậy, Tức vương chẳng mất giọt máu nào, đã tóm được Bạch quốc trong lòng bàn tay. Khi tin tức truyền ra ngoài, thiên hạ không khỏi bàng hoàng, kinh ngạc.

“Kết quả này rất bình thường.” Dưới trời sao, Ngọc Vô Duyên bình tĩnh nói với Hoàng Vũ, người lĩnh quân đến tập hợp, sau khi nghe tin mà kinh ngạc mãi không thôi.

“Có thể đoạt thành mà không tốn một quân một tốt, mưu trí này bổn vương cũng không thể không bội phục.” Hoàng Triều vừa nói vừa lấy tay xoa lên vết thương rỉ máu thấu giáp vì trúng tên ở trước ngực.

Nhưng khi tin này tới tai bốn tướng của Phong Vân kỵ, bọn họ lại không khen ngợi người đồng minh Tức vương như đối thủ của họ.

“Để Bạch vương trốn thoát, chẳng phải hậu họa vô cùng sao?!” Cả bốn tướng cùng đồng tình.

Mà Phong vương lại lắc đầu mỉm cười: “Các ngươi đã quên những lời chúng ta tuyên bố với thiên hạ trong ngày khởi binh rồi ư?”

Lời vừa nói ra, bốn tướng bỗng cả kinh.

“Phạt loạn thần dĩ an quân tắc, tảo nghịch tặc dĩ an dân sinh”, nếu thiên hạ hôm nay không còn “loạn thần nghịch tặc” nữa, thì chúng ta lấy cớ gì để ‘phạt’ để ‘dẹp’ nữa? Và nếu cây cầu dẫn tới đế đô này bị gãy, thì chúng ta làm sao tới được đế đô đây?” Phong vương ôn tồn thức tỉnh ái tướng.

“Bạch vương bỏ thành chạy trốn, rất hợp tình hợp lý, ông ta cũng tự có tính toán của mình.” Tích Vân tiếp tục giải thích. “Bên ngoài, dù là xét về binh lực hay sức mạnh cũng còn lâu mới thắng được Mặc Vũ kỵ đương lúc như hổ rình mồi. Bên trong, lòng dân tán loạn, lòng quân dao động, giao chiến chẳng qua cũng chỉ chuốc lấy một hồi thảm bại, chi bằng bỏ thành bảo toàn lực lượng, sau đó tập hợp với hai vị công tử đang đóng quân ở đất vua, dồn lực tiến công đất vua. Không thể thắng được quân Phong, nhưng quân ở đất vua lại yếu hơn so với quân Bạch, có thể đánh đâu thắng đó, cứ như thế đánh thẳng đến đế đô, cưỡng ép hoàng đế, mà hiệu triệu chư hầu trong thiên hạ…”

Nói đến đây Phong vương bỗng dừng lại, mắt nhìn về phía chân trời mây vần, “Có điều tại đế đô vẫn còn một vị đại tướng quân Đông Thù Phóng, sở dĩ Đế quốc Đông Triều vẫn còn tồn tại đến bây giờ, hoàng đế vẫn còn ngồi trên kim điện đế đô, đều là công lao của vị đại tướng quân này! Nên giấc mộng của Bạch vương, cuối cùng cũng thất bại mà thôi!”

Cuối cùng Phong vương nhìn về phía chư tướng, nói: “Về sau, các anh sẽ được chứng kiến một kỳ cảnh chưa từng thấy trong lịch sử. Hơn thế nữa, chính các anh sẽ tham gia vào việc sáng lập nên đoạn lịch sử đó! Chỉ là… may mắn hay bất hạnh, ta vẫn chưa chắc chắn. Nhưng cho dù là Bạch vương hay Đông Thù Phóng, cũng chỉ là những quân cờ trong tay người khác, và người nắm quân cờ trong tay, tuy chưa từng lên ngựa giết một người, nhưng với những tính toán trăm người cũng không cản nổi này, dù có là mãnh tướng giết giặc thành núi cũng chẳng thể địch lại một cái búng khẽ của người đó! Người này tuy chưa từng khoác áo giáp, nhưng y chính là danh tướng khuynh thế!”

Vừa dứt lời, nét mặt Phong vương xuất hiện những biểu cảm khó hiểu, vừa giống cười lại như than, giống như vui lại như sầu, giống như khen lại như mỉa, thật không phù hợp với phản ứng mà vương hậu tương lai của vị Tức vương đắc thắng kia nên có.

Ngày sau, đoạn thoại cuối cùng này của Phong vương, cùng với lời Hoàng vương, Ngọc Vô Duyên đều được ghi vào sử sách.

Các sử gia bình rằng: lời của công tử, đã để lộ toàn bộ năng lực trí tuệ của nhà họ Ngọc; lời của Hoàng vương, lại nói lên lòng dạ trí thức của bậc vương giả cùng với khí độ anh hùng trọng anh hùng; lời của Phong vương, đề cập đến sự mẫu thuẫn “tham dự vào sáng tạo lịch sử là may mắn hay bất hạnh” với hành vi nên có của bậc vương giả mang tầm nhìn sắc bén thấu hiểu thế sự. Quả thật, ba vương loạn thế, Tức có khí chất nhân quân khiến thiên hạ bái phục, Hoàng có khí chất bá chủ khiến thiên hạ cúi đầu, còn Phong tuy có tài của bậc đế vương, nhưng lại duy nhất thiếu đi ý chí và dã tâm, người như khúc nhạc nơi cốc hoang mà trời giáng xuống trần.

“Nếu Tức vương đã chiếm được Bạch đô, thì ngày mai chúng ta hãy đến đoạt thành Loan đi!”


/55